Thiết kế và chế tạo Ibuki_(tàu_tuần_dương_Nhật)_(1943)

Nó được đặt hàng trong Chương trình Chế tạo 1941 như một phiên bản được cải biến đôi chút của lớp Tone, với tám khẩu pháo 200 mm bố trí phía trước và một sàn đáp và máy phóng phía sau dành cho nhiều chiếc thủy phi cơ. Tuy nhiên, trước khi nó được đặt lườn vào đầu năm 1942, thiết kế được thay đổi thành một phiên bản cải tiến của lớp Mogami.

Ibuki được dự định trang bị vũ khí tương tự như của Mogami, với mười khẩu pháo 200 mm gắn trên năm tháp pháo đôi, ba phía trước mũi và hai phía sau. Nó còn có giàn hỏa lực hạng hai bao gồm tám khẩu pháo 127 mm mục đích kép, 16 ống phóng ngư lôi 600 mm và hai máy phóng dành cho ba thủy phi cơ. Nó có thể đạt được tốc độ tối đa 61 km/h (33 knot). Lớp Mogami từng được chế tạo theo nguyên lý giảm tối đa trọng lượng rẽ nước đến mức có thể được, nhưng sau đó lại được cải tạo rộng rãi không lâu sau khi chạy thử nhằm khắc phục nhiều khiếm khuyết. Vì Ibuki được đặt hàng sau khi Nhật Bản đã rút ra khỏi Hiệp ước Hải quân Washington nên không bị giới hạn trọng lượng rẽ nước ở mức 10.000 tấn dành cho tàu tuần dương, nó được thiết kế để có trọng lượng rẽ nước 12.200 tấn và có được sự cân bằng tốt giữa vũ khí, vỏ giáp, tốc độ và khả năng đi biển.

Việc chế tạo Ibuki bị chậm lại sau trận Midway để dành ưu tiên cho việc chế tạo các tàu sân bay. Việc chế tạo một chiếc tàu tuần dương thứ hai trong lớp Ibuki, được đặt ký hiệu Số 301 nhưng chưa bao giờ được chính thức đặt tên, được bắt đầu vào ngày 1 tháng 6 năm 1942, nhưng bị ngưng lại một tháng sau đó. Số 301 bị tháo dỡ vào năm 1943 nhưng Ibuki được cho hạ thủy tại xưởng tàu Kure vào ngày 21 tháng 5 năm 1943. Việc chế tạo nó bị ngừng lại một tháng sau đó trước khi dàn pháo chính của Ibuki được trang bị.